Bài 2: ‘Bài toán’ giải quyết ô nhiễm không khí cho Thủ đô Hà Nội

24/03/2024 8:45 AM

(Chinhphu.vn) - Tình trạng ô nhiễm không khí hiện nay đang là một trong những vấn đề “nóng” nhất hiện nay. Với những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ và đời sống con người, việc tìm ra “bài toán” để giảm thiểu ô nhiễm không khí đang là vấn đề cấp thiết cần sớm được giải quyết.

Nguyên nhân nào gây ra ô nhiễm không khí?

Nhiều chuyên gia cho rằng, nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí nghiêm trọng ở Hà Nội nhiều năm qua chủ yếu là do giao thông, công nghiệp, xây dựng và các hoạt động dân sinh...

Bài 2: ‘Bài toán’ giải quyết ô nhiễm không khí cho Thủ đô Hà Nội- Ảnh 1.

Ô nhiễm không khí ở TP. Hà Nội và một số tỉnh chủ yếu do 4 nguồn khí thải: Phương tiện giao thông, các hoạt động xây dựng, hoạt động sản xuất công nghiệp và đốt rác. Ảnh: VGP/Thùy Chi

Theo TS. Dương Hoàng Tùng, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), ô nhiễm không khí ở TP. Hà Nội và một số tỉnh chủ yếu do 4 nguồn khí thải: Phương tiện giao thông, các hoạt động xây dựng, hoạt động sản xuất công nghiệp và đốt rác. Riêng phương tiện giao thông, theo thống kê của Sở Giao thông Vận tải Hà Nội, toàn thành phố có khoảng 6,5 triệu xe máy và hơn 1 triệu ô tô lưu thông hằng ngày, do đó số phương tiện này phát thải lượng khí độc hại đáng kể.

TS. Hoàng Dương Tùng cho hay, ô nhiễm bụi chịu tác động rõ rệt bởi các yếu tố khí hậu tạo nên quy luật diễn biến chất lượng không khí theo các mùa trong năm và theo giờ trong ngày. Những năm gần đây, tại Hà Nội và nhiều địa phương khác của Việt Nam cứ đến mùa Thu - Đông chất lượng không khí lại ô nhiễm ở ngưỡng nghiêm trọng. Ở một số thời điểm, chất lượng không khí vượt ngưỡng 300 theo chỉ số AQI (rất nguy hại) và nhiều thời điểm ô nhiễm nghiêm trọng nhất thế giới.

Ngoài ô nhiễm không khí bên ngoài, ô nhiễm không khí do khói thải từ các hộ gia đình là nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe rất lớn đối với 3 tỉ người, những người nấu ăn và sưởi ấm gia đình bằng nhiên liệu sinh khối và than đá. Ô nhiễm không khí tại hộ gia đình cũng là một nguồn chủ yếu gây ra ô nhiễm không khí bên ngoài ở cả khu vực đô thị và nông thôn.

Một nguyên nhân nữa là hiện Hà Nội và các đô thị đang trong quá trình phát triển, xây dựng mới và cải tạo hệ thống hạ tầng do đó ô nhiễm môi trường do nhiều công trình xây dựng không được che chắn, cát sỏi vứt bừa bãi làm cho đường sá bụi bặm.

Nguyên nhân làm tăng thêm ô nhiễm không khí ở Thủ đô Hà Nội là từ các chất thải độc hại không được kiểm soát từ các nhà máy, các khu công nghiệp, làng nghề…

Ngoài ra, theo TS. Hoàng Dương Tùng, việc đốt rơm rạ sau thu hoạch, dân số tăng khiến rác sinh hoạt ngày càng nhiều, việc đốt rác trở thành hiện tượng phổ biến. Các hoạt động nông nghiệp như chăn nuôi, bón phân hóa học thuốc trừ sâu… cũng là nguồn gây ô nhiễm không khí thứ cấp đáng kể chưa được quan tâm trong mấy năm vừa qua.

Trong khi đó, GS.TS Hoàng Xuân Cơ, Tổng Thư ký Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam (VIASEE) cho biết, số liệu tổng hợp nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước cho thấy ô nhiễm không khí ở Hà Nội đã xảy ra từ hơn 20 năm trở lại đây, bắt đầu từ khi ồ ạt xây dựng cơ sở hạ tầng và tập trung dân cư về Hà Nội.

Năm 2003 - 2004, Hà Nội đã tiến hành đề tài nghiên cứu về ô nhiễm bụi, kết quả cho thấy ô nhiễm bụi đã xảy ra ở diện khá rộng. Số liệu sử dụng trong báo cáo này được lấy từ các trạm đo tự động, từ các đợt quan trắc công phu, không chỉ xác định nồng độ bụi mà còn phân tích, tính toán nồng độ các nguyên tố, các ion, các chất hydro carbon có trong các loại bụi kích thước nhỏ, dễ xâm nhập sâu vào cơ thể người như bụi PM10 (kích thước động học dưới 10mcm), bụi PM2,5 (kích thước động học dưới 2,5mcm). 

GS.TS Hoàng Xuân Cơ khẳng định, kết quả trên rất đáng tin cậy và đủ tính pháp lý, bởi kết quả dựa trên số liệu thu thập lớn, phương pháp xử lý hiện đại, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng.

Theo GS.TS Hoàng Xuân Cơ, ô nhiễm không khí chủ yếu là sản phẩm của hoạt động sống và sản xuất của con người. Đời sống con người được nâng cao thì phải sản xuất nhiều hàng hóa và phải đánh đổi nhiều thứ như cạn kiệt tài nguyên và suy giảm chất lượng môi trường.

Dữ liệu từ Trung tâm phát triển sáng tạo Xanh GreenID cũng chỉ ra, nguồn bụi ô nhiễm ở các đô thị lớn hầu hết là từ khí thải giao thông, công trình xây dựng, đường sá và sản xuất công nghiệp. Mức độ ô nhiễm của Hà Nội chỉ sau New Delhi (Ấn Độ), là nơi ô nhiễm không khí hàng đầu thế giới với nồng độ bụi PM2.5 lên tới 124 µg/m3 không khí. Đối với khu vực nông thôn, mức độ ô nhiễm chủ yếu bị tác động cục bộ bởi các hoạt động sản xuất của các làng nghề, hoạt động xây dựng, đốt rơm rạ, rác thải và đun nấu.

Rà soát lại từ tháng 11/2023 đến nay, nhiều khu vực ở Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc thường xuyên "chìm" trong bầu không khí trắng đục mịt mù của sương và khói bụi. Dữ liệu quan trắc cho thấy, chất lượng không khí Hà Nội đo được trên các ứng dụng quan trắc liên tục xuất hiện chỉ số AQI cao với các màu nâu, đỏ, thậm chí là tím. Đáng nói, ở một số thời điểm, Hà Nội còn bị xếp là thành phố ô nhiễm nhất thế giới.

Tuy nhiên, những dữ liệu này chỉ tương ứng với thời gian cụ thể cho vị trí khu vực trạm quan trắc nhất định, không mang tính đại diện cho toàn TP. Hà Nội. Dù là vậy, người dân cũng rất lo ngại. Bởi theo thông tin từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ô nhiễm không khí làm cho mọi người phải tiếp xúc với các hạt mịn trong không khí bị ô nhiễm. Các hạt mịn này thâm nhập sâu vào phổi và hệ thống tim mạch, gây ra các bệnh đột quỵ, bệnh tim, ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp.

Triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để cải thiện chất lượng không khí

Thời gian qua, Hà Nội đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm hạn chế nguồn phát sinh chất gây ô nhiễm không khí. Cụ thể, thành phố đã đưa vào vận hành hệ thống 35 trạm quan trắc không khí tự động, 6 trạm quan trắc nước mặt, giám sát chất lượng môi trường khí thải, nước thải các khu, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất làm cơ sở nghiên cứu, đề xuất giải pháp cải thiện chất lượng không khí.

Đến nay, TP. Hà Nội đã chỉ đạo các cấp chính quyền xóa được hơn 99% số lượng bếp than tổ ong, giảm 80% lượng đốt rơm rạ ở ngoại thành, xóa bỏ hàng trăm lò gạch thủ công; thu gom, vận chuyển rác thải hàng ngày khu vực đô thị đạt trên 90%, khu vực ngoại thành đạt 80%; đẩy nhanh tiến độ đầu tư các nhà máy xử lý rác thải phát điện tại Nam Sơn 4.000 tấn/ngày, Xuân Sơn 1.500 tấn/ngày, tiếp tục kêu gọi đầu tư các nhà máy xử lý rác thải phát điện hiện đại.

Cùng với đó, Hà Nội đã trồng nhiều cây xanh, chuyển sang dùng các phương tiện giao thông chạy bằng năng lượng sạch, triển khai chương trình đo kiểm khí thải xe mô tô, xe gắn máy cũ đang lưu hành trên địa bàn; chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý cơ sở sản xuất, công trình xây dựng gây bụi bẩn; rà soát đầu tư xây dựng, chỉnh trang công viên, hồ điều hòa; yêu cầu các đơn vị vệ sinh môi trường tăng cường tưới nước rửa đường, thu gom rác thải… nhằm hạn chế phát sinh ô nhiễm.

Tuy nhiên những nỗ lực ấy của Hà Nội vẫn rất chật vật, chặn đường đầu này lại phình đầu khác, các nguồn thải vẫn rất khó kiểm soát. Kết quả nghiên cứu của Viện Khí tượng Phần Lan, trong khuôn khổ dự án hỗ trợ kỹ thuật quản lý chất lượng không khí của Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ, xác định các nguồn thải ô nhiễm không khí thông qua việc lấy mẫu, phân tích thành phần hóa học của bụi PM2.5 và ứng dụng mô hình PMF tại TP. Hà Nội cho thấy, khoảng 50% khối lượng bụi mịn PM2.5 là chất hữu cơ, đến từ các nguồn sau quá trình đốt cháy trong công nghiệp (dùng các chất nhiên liệu hóa thạch như than, dầu mỏ, khí đốt…); quá trình đốt sinh khối (từ rơm rạ, chất thải rắn…).

Cùng với đó là các quá trình bụi mịn di chuyển từ xa; từ giao thông; 33% (1/3) khối lượng bụi mịn PM2.5 là từ các hợp chất vô cơ thứ cấp, các nguồn thải di chuyển từ xa đến, hoặc cũng có thể từ các nguồn thải của Hà Nội.

Là đơn vị được giao nhiệm vụ "Xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cho thành phố Hà Nội" theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đang tiến hành kiểm kê, lượng hóa các nguồn ô nhiễm không khí, đưa ra các giải pháp phù hợp về chính sách, công nghệ và điều kiện, năng lực của địa phương.

Đánh giá về công tác xây dựng Kế hoạch quản lý chất lượng không khí thành phố Hà Nội đến năm 2030, định hướng đến năm 2035, ông Nguyễn Minh Tấn, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho biết, cùng với quá trình đô thị hóa và mở rộng Thủ đô, Hà Nội trở thành một trong 17 đô thị lớn nhất thế giới. Do đó, thành phố đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực do ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, quá trình đô thị hóa nhanh chóng với hàng nghìn công trường xây dựng phát sinh hằng ngày một lượng lớn bụi vào môi trường làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng không khí.

Ngoài ra, việc quy hoạch phát triển thành phố còn chưa đồng bộ, thiếu lồng ghép các giải pháp môi trường và hạn chế trong hiểu biết của các cộng đồng dân cư đang là những thách thức không nhỏ làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng không khí của Hà Nội.

Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội Nguyễn Minh Tấn cho rằng, bên cạnh quyết tâm của lãnh đạo thành phố và các cấp, ngành rất cần sự hỗ trợ, hợp tác của các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, đặc biệt sự tham gia cùng hành động của toàn thể các đơn vị, tổ chức và nhân dân trong việc cải thiện chất lượng không khí Thủ đô.

Ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, xử lý ô nhiễm môi trường không phải "ngày một, ngày hai". Nhiều quốc gia cũng mất hàng chục năm và đầu tư nguồn lực rất lớn mới dần cải thiện được chất lượng không khí. Để cải thiện chất lượng môi trường nói chung và không khí nói riêng, cần sự chung tay của các bộ, ngành, địa phương và một trong những giải pháp căn cơ là chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế sang tăng trưởng xanh, dùng nhiên liệu sạch thay cho nhiên liệu hóa thạch. Muốn vậy, Chính phủ cần có cơ chế, lộ trình rõ ràng để chuyển đổi sang nền công nghiệp sạch.

Cho ý kiến đánh giá về việc triển khai các giải pháp giảm ô nhiễm không khí, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam Hoàng Dương Tùng cho rằng, ô nhiễm không khí tại Việt Nam được chú ý từ nhiều năm trở lại đây. Chất lượng không khí xung quanh, các nguồn ô nhiễm đã được đề cập trong báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường và cơ quan quản lý. Hệ thống pháp lý gồm luật, nghị định, thông tư, quy chuẩn bảo vệ môi trường không khí liên tục được hoàn chỉnh. Các kế hoạch hành động quốc gia nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí được ban hành.

Tuy nhiên, theo TS. Hoàng Dương Tùng, mặc dù đã ban hành nhiều văn bản quy định, nhưng không cụ thể, thiếu các hướng dẫn kỹ thuật, vẫn nặng tiền kiểm thay vì hậu kiểm, làm cho doanh nghiệp, cơ quan quản lý, nhất là ở cấp địa phương không dễ thực hiện.

TS Hoàng Dương Tùng đề xuất, tới đây, cần phải kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải, kiểm soát khí thải của 25 nhà máy nhiệt điện chạy than hiện nay và các nhà máy nhiệt điện trong tương lai; khoảng 60 nhà máy xi măng, nhà máy sản xuất thép; giải quyết vấn đề gây ô nhiễm ở các làng nghề tái chế giấy, kim loại, nhựa; không đốt rác, bắt buộc che chắn đối với các công trình xây dựng. Đồng thời, cần tiến hành ngay việc kiểm soát khí thải xe máy, trước hết tại các đô thị lớn…

Bên cạnh đó, cần giải quyết vấn đề về nguồn lực giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí ở nước ta rất hạn chế. Có thể ví dụ như ở Berlin (Đức), dù diện tích và dân số ít hơn Hà Nội nhiều nhưng có cơ quan quản lý chất lượng không khí riêng với đội ngũ cán bộ chuyên ngành khoảng 40 người. Trong khi, Hà Nội thường xuyên có những ngày ô nhiễm cao ở mức đỏ, tím, thậm chí nâu nhưng không có cơ quan quản lý không khí riêng, cán bộ chuyên ngành rất ít. Đây là bức tranh chung ở các địa phương và ở cấp trung ương.

Trước thực trạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng vẫn xảy ra gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, Hà Nội bày tỏ mong muốn các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các tổ chức xã hội về môi trường, các doanh nghiệp chia sẻ kinh nghiệm, đồng thời đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp hiệu quả cho vấn đề cải thiện chất lượng không khí trên địa bàn Thủ đô trong những giai đoạn, lộ trình tiếp theo.

Để giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí, bà Carolyn Turk, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, cần có sự phối hợp giữa các tỉnh lân cận dưới sự chủ trì của TP. Hà Nội. Kinh nghiệm quốc tế và từ các dự án của Ngân hàng Thế giới hỗ trợ, đặc biệt ở Trung Quốc, đã chứng minh lợi ích của sự phối hợp vùng và giữa các tỉnh, thành.

Theo bà Carolyn Turk, để cải thiện chất lượng không khí cho Thủ đô, chính quyền TP. Hà Nội cần thực thi hiệu quả lệnh cấm đốt rác, phế phẩm nông nghiệp ngoài trời, hỗ trợ quản lý tốt hơn phế thải nông nghiệp và có các biện pháp giảm bụi đường phố; xây dựng chiến lược quản lý chất thải bền vững để bảo đảm loại bỏ việc đốt rác ngoài trời, tăng tỉ lệ thu gom, phân loại, tái chế, thu hồi khí mê tan tại các bãi chôn lấp và tăng tỷ lệ làm phân hữu cơ; giải quyết nguồn phát thải amoni từ hoạt động nông nghiệp, sử dụng phân bón vô cơ và hoạt động chăn nuôi. Đây là một phần quan trọng đáng kể trong kế hoạch quản lý không khí.

Bên cạnh đó, củng cố và thực thi các tiêu chuẩn kiểm soát khí thải xe máy, thúc đẩy giao thông công cộng, đẩy mạnh phát triển xe điện, có thể hình thành các khu vực kiểm soát phát thải trong thành phố. Đồng thời, thắt chặt tiêu chuẩn phát thải cho các nhà máy điện và ngành công nghiệp, tăng tỉ lệ năng lượng tái tạo, phù hợp với cam kết của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tại COP26 về đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Việc giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí không chỉ riêng sự vào cuộc của các cấp, các ngành mà cần sự chung tay của cả người dân. Mỗi người dân cần phải tự ý thức đối với từng hành động của mình để cùng chung tay bảo vệ môi trường, góp phần giảm thiểu ô nhiễm không khí.

Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Trọng Đông cho biết, TP. Hà Nội đã và đang nỗ lực triển khai nhiều biện pháp ứng phó với ô nhiễm không khí… Tuy nhiên, để có thể cải thiện được chất lượng không khí ở Thủ đô, Hà Nội rất cần sự chung tay của các tổ chức xã hội, người dân và đối tác phát triển để thúc đẩy các hành động chung về nâng cao chất lượng không khí, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

"Việc giải quyết các thách thức và thực hiện hiệu quả các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí vừa là yêu cầu cấp thiết vừa là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững cho Thủ đô, góp phần vào nỗ lực chung của Việt Nam thực hiện cam kết mạnh mẽ về ứng phó với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát thải bằng "0" - Net Zero vào năm 2050", Phó Chủ tịch Nguyễn Trọng Đông nhấn mạnh.

Thùy Chi

Top