Bảo đảm an ninh nguồn nước vùng tây Hà Nội
(Chinhphu.vn) - Trước tình trạng ô nhiễm đang đặt ra nhiều thách thức cho việc bảo đảm an ninh nguồn nước vùng tây Hà Nội, các chuyên gia đề xuất nhiều giải pháp cứu các dòng sông chết và đảm bảo an ninh nguồn nước phía tây Thủ đô, như xây dựng đập dâng, cải tạo hệ thống thủy lợi đến quản lý khai thác cát.
Nhiều thách thức cho việc bảo đảm an ninh nguồn nước vùng tây Hà Nội
Trong khi đó, vùng phía Tây Hà Nội là khu vực quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Thủ đô. Tuy nhiên, đây là vùng có nhiều vấn đề nóng về an ninh nguồn nước.

Hệ thống sông ngòi phía Tây Hà Nội. Ảnh: Viện Quy hoạch Thủy lợi
Vùng phía tây Hà Nội với ba quận, một thị xã và 12 huyện, diện tích tự nhiên khoảng 233.570 ha, dân số 3,4 triệu người, diện tích đất nông nghiệp 147 nghìn ha. Khu vực này có các sông như: Đà, Hồng, Đáy, Tích, Nhuệ chảy qua nhưng hiện nay, vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước cũng đang gặp phải những khó khăn do hầu hết các sông đã bị hạ thấp lòng dẫn.
Ông Đỗ Văn Thành, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi cho biết, hầu hết các sông bị hạ thấp lòng dẫn. Tại sông Đà, cụ thể khu vực cầu Trung Hà, lòng dẫn biến động mạnh qua các năm, so với 2001 đã hạ thấp hơn 6m. Sông Hồng hạ thấp bình quân 4 đến 8m. Trong đó, đoạn chảy qua thị xã Sơn Tây hạ hơn 7m, và đoạn chảy qua trung tâm Hà Nội giảm khoảng 4,5m.
Nguyên nhân được chỉ ra là do một phần phù sa giữ lại bởi các hồ chứa thượng nguồn. Và hoạt động khai thác cát trái phép, quá mức quy định nhằm phát triển kinh tế, cũng khiến cho các hệ thống thủy lợi ven sông hồng, sông Đà bị "treo giỏ", trơ đáy, thậm chí không hoạt động được. Điển hình như các công trình: Lương Phú, Trung Hà, Cẩm Đình, Đan Hoài, Liên Mạc, Hồng Vân,…
Để phục vụ sản xuất vụ đông xuân, ông Thành cho biết, hàng năm các hồ chứa thủy điện phải xả nước gia tăng từ 3 đến hơn 5 tỷ m3. Dẫu vậy, điều khiến các cán bộ Viện Quy hoạch Thủy lợi trăn trở là việc hạ thấp lòng dẫn vẫn có xu hướng tăng lên. Trước 2012, để duy trì mực nước trên 2,2m tại Hà Nội cần xả 2-3 tỷ m3.
Gần đây, tổng lượng xả có năm lên đến hơn 5 tỷ m3. Đặc biệt, xả hết công suát các tổ máy (lưu lượng trên 3.200 m3/s) cũng không dâng được mực nước Hà Nội lên quá 2m. Việc xả nước gia tăng phục vụ đổ ải vụ đông xuân, ảnh hưởng đến an ninh năng lượng.
Cùng với đó, nguồn nước một số sông trục, hệ thống thủy lợi bị ô nhiễm nặng. Theo thông tin do Viện Quy hoạch Thủy lợi cung cấp, chỉ số Chất lượng nước (WQI) năm 2024 trên trục sống Nhuệ từ Liên Mạc tới Lương Cổ chỉ từ 20 đến 40, ở dưới giới hạn >50 cho mục đích tưới tiêu. Nhiều đoạn ô nhiễm nặng (<25).
Dòng chính sông Đáy đoạn qua địa phận Hà Nội cũng có chỉ số WQI mức kém (<40). Các thông số chất lượng nước ở hầu hết các thời điểm quan trắc đều vượt giới hạn cho phép. Nguyên nhân chính là do công trình đầu mối không lấy được nước. Đồng thời, chưa tách và xử lý được các nguồn xả thải tập trung trước khi đổ vào công trình thủy lợi.
Mưa lớn gây lũ cực đoan trên sông và ngập úng các khu vực đô thị, dân cư, sản xuất. Ông Thành chỉ ra, khu vực Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm và đô thị Hoài Đức thường xuyên bị ngập khi có trận mưa 70 đến 100mm trở lên trong vòng 2-3 giờ. Ở xã Nam Phương Tiến và Hoàng Văn Thụ (huyện Chương Mỹ), năm 2018 ngập hơn 2.200 ha, năm 2024 xảy ra liên tiếp 2 trận ngập lụt diện rộng, kéo dài vào tháng 7 và tháng 9.
Lũ lớn trên hệ thống sông Đáy, sông Bùi, trong đó sông Đáy bao gồm cả vùng hạ du thuộc Hà Nam, gây nhiều khó khăn cho việc tiêu thoát nước và ảnh hưởng đến đời sống người dân. Điển hình đợt mưa lũ do cơn bão số 3 vào tháng 9/2024 vừa qua, gây ra trên sông Tích, sông Bùi thuộc thành phố Hà Nội, mực nước cao hơn lũ lịch sử năm 2018 tại vị trí Yên Duyệt 0,3m. Trên sông Đáy, tại trạm Phủ Lý, mực nước đỉnh lũ là 5,22, lớn hơn lũ lịch sử tháng 10/2017.
Sớm tháo gỡ khó khăn, bảo đảm an ninh nguồn nước
Trước những thực trạng trên, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi đề xuất phương án tổng thể. Theo đó, xây dựng các đập dâng trên sông Hồng, sông Đuống, để dâng cao đầu nước, bảo đảm cấp nước ven sông Hồng. Trong đó, có các công trình lớn phía Tây Hà Nội như trạm bơm Trung Hà, Phù Sa, cống Cẩm Đình, cống Liên Mạc,…
Theo quy hoạch được duyệt, sẽ xây dựng 2 đập Xuân Quan và Long Tửu. Cụ thể, đập dâng nước trên sông Hồng cách hạ lưu cống Xuân Quan khoảng 1km. Đập dâng nước trên sông Đuống cách hạ lưu cống Long Tửu khoảng 11,5 km.
Ông Thành tiếp tục đề xuất, ưu tiên cải tạo, nâng cấp các hệ thống thủy lợi. Trong đó, phía Tây Hà Nội có các hệ thống thủy lợi: Phù Sa - Đồng Mô, sông Nhuệ, sông Đáy… Về tưới, nâng cấp, cải tạo, bổ sung công trình đầu mối và hệ thống kênh dẫn. Về tiêu, nâng cấp, cải tạo, bổ sung công trình đầu mối; tăng cường tiêu ra sông chính; hoàn thiện hệ thống kênh dẫn; khắc phục bồi lắng các trục tiêu.
Riêng đối với sông Nhuệ, trong thời gian chờ giải pháp bền vững, ông Nguyễn Trường Duy, Hội Đập lớn và Phát triển Nguồn nước Việt Nam, góp ý kiến vận hành 4 trạm bơm: Bà Giang, Đan Hoài, Hồng Vân, Thụy Phú với tổng công suất 36 m3/s. Từ đó, bơm nước sông Hồng vào sông Nhuệ, đóng cống điều tiết Nhật Tựu, để dự trữ nước chủ động cho sản xuất nông nghiệp đúng thời vụ và cải tạo môi trường. Vì ông Duy cho rằng, các trạm bơm này đang thừa công suất.
Còn trên sông Đà, ông Thành đề xuất, xây dựng đập dâng lấy nước qua cống Lương Phú cấp vào các sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch. Song song với đó, nên xem xét việc xây dựng đập dâng Thuần Mỹ để dâng cao đầu nước. Đối với việc dẫn nước từ thượng lưu đập Thuần Mỹ làm hồi sinh các dòng sông nội đô, ông Thành cho biết, vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đảm bảo khả thi về kinh tế, kỹ thuật và các tác động liên quan.
Từ quan điểm trên, ông Duy nêu, lấy 100m3/s qua cống Thuần Mỹ vào sông Tích, về đến Sơn Tây (Km37), xây dựng đập điều tiết chuyển 40m3/s về sông Tích và sông Bùi. Còn 60m3/s làm mới tuyến kênh theo đường quy hoạch Tây Thăng Long, cấp cho sông Đáy 30 m3/s và sông Nhuệ 30 m3/s. Tuy nhiên, do đáy sông Đà bị hạ thấp, nên mực nước sông Đà tại cống Thuần Mỹ rất thấp không lấy được nước. Vì vậy, cần làm đập dâng để trả lại cao trình mức nước trên sông như thiết kế.
Bên cạnh đó, bổ sung trong quy hoạch trình Chính phủ tuyến đập dâng trên sông Đà kết hợp đa mục tiêu và tuyến kênh chuyển nước từ sông Tích tại Sơn Tây theo trục đường Tây Thăng Long cấp cho các sông hồ phía Tây Hà Nội.
Tình trạng khai thác cát quá mức cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng tới việc hạ thấp lòng sông Đà và sông Hồng. Nhận diện được hiện trạng này, ông Thành kiến nghị, cần quản lý có hiệu quả việc khai thác cát trên sông Đà, sông Hồng. Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, đề xuất cần nghiên cứu chuyển đổi vật liệu xây dựng để giảm khai thác cát và khôi phục các dòng sông. Các dự án thủy lợi phải được đưa vào pháp quy để đảm bảo tính bền vững.
Hướng đến giải pháp cải thiện toàn diện sông Đáy, ông Thành đề xuất, nạo vét lòng dẫn sông Đáy, tạo đủ không gian thoát lũ nội tại và yêu cầu phân lũ sông Hồng, bảo vệ thủ đô Hà Nội. Kết hợp với đó là cải tạo cảnh quan, cải thiện môi trường, giao thông thủy.
Cuối cùng, để phòng, tránh lũ cho vùng rốn lũ thuộc huyện Chương Mỹ, ông Thành cho rằng các giải pháp xây dựng hồ chứa cắt lũ thượng nguồn sông Bùi là khó khả thi do gây ngập lụt một số khu vực thuộc 2 xã ở Hòa Bình. Trên quan điểm chủ động thích nghi, né tránh và chung sống với lũ, trước mắt, Viện Quy hoạch Thủy lợi mới có thể đưa ra vài giải pháp ứng phó như: bổ sung các trạm bơm tiêu lũ tiểu mãn, củng cố đê điều phù hợp với phân cấp đê. Đồng thời, có giải pháp di dân khỏi vùng ngập sâu, xây dựng nhà tránh lũ và tổ chức lại sản xuất thích nghi với ngập úng trong mùa mưa.
Nguyên nhân chính là do hạ thấp đáy sông dẫn đến hạ thấp mực nước trên sông Đà, sông Hồng làm cho các công trình thủy lợi không lấy đủ nước; biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan; phát triển kinh tế xã hội làm gia tăng nhu cầu, tính chất, mục đích sử dụng nước, đồng thời tác động đến khả năng tiêu úng, thoát lũ và phòng chống thiên tai…
Các quy hoạch như đã được trình bày là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện các giải pháp bảo đảm anh ninh nguồn nước cho vùng Tây Hà Nội. Việc thực hiện các quy hoạch theo đúng lộ trình và tăng cường quản lý là những nhân tố cơ bản để bảo đảm anh ninh nguồn nước, phục hồi các dòng sông "chết" trong khu vực.
GS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, cho rằng việc xây dựng hai đập dâng để hồi sinh các dòng sông suy kiệt là khả thi. Tuy nhiên, ông cũng đề xuất cần nghiên cứu kỹ lưỡng về chiều cao của đập dâng và phối hợp với các nhà máy thủy điện để bảo đảm lưu lượng xả ổn định.
Các nhà khoa học cũng cho rằng cần xây dựng quy hoạch tổng thể, lâu dài. Đây là nhiệm vụ cấp bách để phục hồi các dòng sông phía tây Hà Nội, bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo vệ môi trường và phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Hà Nội hiện có 9 con sông chảy qua Thủ đô, gồm Hồng, Đuống, Đà, Nhuệ, Cầu, Đáy, Cà Lồ, Tích và Tô Lịch. Phía tây Hà Nội có 8 con sông, trong đó: sông Tích, sông Bùi, sông Nhuệ và sông Đáy có nhiệm vụ cấp nước tưới tiêu. Số còn lại: Kim Ngưu, Lừ, Sét, Tô Lịch có nhiệm vụ tiêu nước.
Thùy Chi