Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: Áng hùng văn bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh

19/12/2016 9:15 AM

(Chinhphu.vn) - Cách đây tròn 70 năm, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Lời kêu gọi đã thể hiện ý chí và quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ảnh: Kim Liên

Theo PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến được Bác Hồ viết ra trong một bối cảnh rất khẩn trương khi mà thực dân Pháp đã bộc lộ rõ dã tâm gây chiến và xâm lược bằng sức mạnh quân sự bất chấp các thỏa thuận trước đó.

Ngày 20/11/1946 đánh dấu sự thay đổi một cách rõ ràng trong chủ trương của giới cầm đầu chính trị và quân sự của Pháp ở Việt Nam, từ khiêu khích, lấn chiếm từng bước sang công khai tiến công, chiếm đóng những vị trí có tầm quan trọng về chiến lược ở miền Bắc. Trong ngày này, quân Pháp đã cùng lúc tạo cớ để nổ súng đánh chiếm hai cửa ngõ đường biển và đường bộ quan trọng nhất là thành phố cảng Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn. Sự kiện nghiêm trọng này diễn ra chỉ sau hơn hai tháng Việt Nam và Pháp ký bản Tạm ước (Modus Vivendi) ngày 14/9 và đúng một tháng kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước sau chuyến thăm Pháp dài ngày nhằm ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.

Ngày 16/12, Bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương họp tại Hải Phòng đã quyết định thực hiện “một năm đảo chính” về quân sự, đặt chính phủ Pháp tại Pari trước một sự đã rồi bằng việc gia tăng các hoạt động khiêu khích, gây sức ép ngay tại Hà Nội. Thực dân Pháp gây ra vụ tàn sát dân thường ở phố Yên Ninh - Hàng Bún, liên tiếp gửi tối hậu thư buộc ta phải giao quyền giữ trật tự, trị an ở Hà Nội, buộc tự vệ, công an của ta phải giao nộp vũ khí…nếu không thực hiện, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động. Tất cả các động thái trên của chúng là nhằm ép ta đến mức không chịu được, phải nổ súng trước, để lấy lý do đó vu cáo chúng ta gây ra cuộc chiến tranh trên phạm vi cả nước.

Trước bối cảnh đó, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến rất ngắn gọn nhưng Bác viết rất cẩn trọng, từ ngữ nào mà chưa toát lên được tinh thần như một bài Hịch thì Bác bỏ đi, từ nào tối nghĩa, không rõ nghĩa, Bác cũng bỏ đi cho nên chúng ta thấy bút tích của Bác viết đè lên và có gần 200 chữ”, PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà cho biết.

Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, tình thế hết sức hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”, từng câu từng chữ trong lời kêu gọi kháng chiến thiêng liêng của Bác nhanh chóng thấm nhuần sâu sắc vào tâm khảm nhân dân ta, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam.

Mở đầu Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ lý do nhân dân ta phải đứng lên kháng chiến. Người viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! chúng ta phải đứng lên”. Chỉ bằng một đoạn viết ngắn như vậy, Người đã giải thích cho toàn dân hiểu rõ chúng ta rất mong muốn hòa bình, thiết lập tình hữu nghị, sự hợp tác với chính phủ và nhân dân Pháp, nên đã có những nhân nhượng, cam kết nhưng vì đối phương chủ trương gây chiến, không còn con đường nào khác, buộc nhân dân ta phải dùng chiến tranh, một cuộc chiến tranh chính nghĩa để chống lại chiến tranh phi nghĩa.

Bên cạnh đó, Người đã diễn giải một cách mộc mạc, dễ hiểu nội dung quan điểm toàn dân kháng chiến khi kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Như vậy, chủ trương tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân, trong đó mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm, đường phố là một pháo đài, tận dụng triệt để sức mạnh của toàn dân tham gia kháng chiến để tạo nên một so sánh lực lượng hơn hẳn, áp đảo kẻ thù, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát một cách đầy đủ, gọn rõ: Hễ là người Việt Nam thì phải tham gia kháng chiến.

Trong lời kêu gọi ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày một cách giản dị và hào hùng về đường lối, quan điểm của cuộc chiến tranh toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến khi viết: “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm. Không có gươm, có súng thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, giáo mác. Ai cũng phải ra sức đánh thực dân Pháp”. Vì đây là một cuộc chiến tổng lực, cần phải đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, trên mọi lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, để tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch để giành thắng lợi.

Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân, bởi đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt, quyết định sự chiến thắng: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”

Kết thúc Lời kêu gọi, Người khẳng định một niềm tin tất thắng thuộc về ta khi viết: “Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”. Sự khẳng định này tưởng chừng như đơn giản nhưng để đạt được điều đó, Người đã xác định trước với toàn dân là cuộc chiến đấu sẽ diễn ra vô cùng khó khăn gian khổ với nhiều hy sinh, tổn thất. Đây là sự chuẩn bị tinh thần rất cần thiết cho quân và dân cả nước trước khi bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến với niềm tin tất thắng vào sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc ta.

Có thể nói, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ.

PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà khẳng định: Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến cách đây đã 70 năm, nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng ấy vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam; quán triệt trong ý thức bảo vệ Tổ quốc của thế hệ hôm nay và mai sau. Lời thề thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc cùng với ý chí, hành động đánh giặc cứu nước của dân tộc ta đã để lại bài học quý giá.

Đồng thời là lời cảnh báo cho các thế lực xâm lược rằng mỗi khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lăng thì cả dân tộc Việt Nam sẽ nhất tề đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Một dân tộc nhỏ bé nhưng với ý chí, quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, chúng ta có đủ sức mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Kim Liên

Top