Phong tục dựng cây nêu trong ngày Tết
(Chinhphu.vn)-Ở nhiều địa phương, dựng cây nêu trong ngày Tết là phong tục tín ngưỡng lâu đời, truyền thống không thể thiếu được. Cây nêu chính là cây tre, cây trúc. Tuy nhiên, ngày nay, ở khu vực thành thị, nhiều nhà thay bằng cây mía, đặt trong phòng khách hoặc trước sân nhà trước đêm giao thừa Tết nguyên đán.
Cây nêu ngày Tết ở một làng quê-Ảnh Internet |
Phong tục dựng cây nêu trong ngày Tết có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đối với quan niệm của người Kinh, cây nêu có thể là cây bương, lồ ô, nhưng đa phần người ta dùng cây tre cao tỉa sạch cành lá. Trong khi các dân tộc thiểu số chỉ dùng một số loại cây gỗ thân chắc chắn, như cây gạo của người Gia Rai. Trên cây nêu, người ta treo những vòng tròn nhỏ hoặc các đồ vật theo tín ngưỡng của người địa phương. Và qua thời gian, cây nêu đã trở thành một vật mang tính biểu tượng nhiều hơn là một loại cây thực sự. Phong tục cuối năm trồng cây nêu là để xua đuổi đi những điều xấu, điều không may mắn. Những ngọn nêu vương cao trong nắng gió là cầu mong cho một năm mới bội thu, nhiều may mắn.
Sự tích cây nêu
Sự tích về cây nêu ngày Tết có kể rằng, ngày xưa Quỷ chiếm toàn bộ đất, còn Người chỉ làm thuê, và nộp phần lớn lúa thu hoạch cho Quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột Người quá tay, và cuối cùng Quỷ tự cho mình hưởng quyền "ăn ngọn cho gốc".
Người chỉ được hưởng rạ, tuyệt đường sinh nhai nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Phật bảo Người đừng trồng lúa mà trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy, Người được hưởng trọn củ khoai, còn Quỷ chỉ hưởng lá và dây khoai, đúng theo phương thức 'ăn ngọn cho gốc'.
Mùa kế, Quỷ chuyển qua phương thức "ăn gốc cho ngọn". Phật bảo Người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả, Quỷ hưởng toàn rạ, lại hỏng ăn.
Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau tuyên bố "ăn cả gốc lẫn ngọn". Phật trao cho Người giống cây ngô (bắp) để gieo khắp nơi. Quỷ lại không được gì, còn Người thì thu hoạch cơ man là bắp ngô. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả lại tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa.
Phật bàn với Người điều đình với Quỷ, xin miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây tre. Quỷ thấy không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để bóng chiếc áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến Quỷ mất đất phải chạy ra biển Đông.
Mất đất sống, Quỷ huy động quân vào cướp lại. Phật bày Người tấn công bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột... Quỷ thua và bị đày ra biển. Trước khi đi, Quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương hại nên hứa cho.
Do đó, hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên Đán là những ngày Quỷ vào thăm đất liền, người ta theo tục cũ trồng cây nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ. Trên nêu có treo khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.
Vì thế, cứ đến 23 tháng chạp thì cây nêu được dựng lên, là ngày Táo quân về trời. Theo sự tích, chính vì từ ngày này cho tới đêm giao thừa vắng mặt Táo quân, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy tháng Giêng thì cây nêu được hạ xuống.
Như vậy, câu nêu đã trở thành biểu tượng của sự đấu tranh giữa cái thiện và ác nhằm bảo vệ cuộc sống bình an của con người.
Đến triết lý âm dương
Cây nêu trong phong tục lâu đời của dân tộc Việt còn mang triết lý âm dương, được biết qua hai chữ Càn (Trời) và Khôn (Đất) nằm trong hình ảnh cái nón và cây gậy của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Ở đây còn bao hàm sự thống nhất và tương trợ giữa Âm và Dương hay sự không tách rời giữa Động và Tĩnh…
Khởi nguyên cây nêu được dựng với ý nghĩa trừ ma quỷ, thờ phụng thần linh và vong hồn tổ tiên, trừ những điều xấu xa của năm cũ. Nhưng theo thời gian cùng với sự phong phú của các đồ lễ treo trên ngọn cây, cây nêu là cầu nối giữa vũ trụ với đất trời.
Trong các lễ hội, cây nêu là tiêu điểm tập trung, cố kết tâm thức cộng đồng. Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động khác đều dừng lại, tạo nên thế cân bình tuyệt đối trong sự vận hành giữa năm cũ và năm mới. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh hoạt vui vẻ, quên đi những ưu phiền của năm cũ.
Tuy nhiên nếu để ý, người ta sẽ thấy cây "nêu" mỗi nhà mỗi khác, khác ngay ở chính loại cây. Nhiều người dựng cây tre, nhưng có người dùng một số loại cây cùng họ tre như trúc, hay thậm chí đơn giản chỉ là thân cây mía.
Trên ngọn nêu có buộc nhiều thứ (tùy từng địa phương) như cái túi nhỏ đựng trầu cau và ống sáo, những miếng kim loại lớn nhỏ.
Khi có giỏ thổi chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh, rất vui tai. Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu…
Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để Tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ.
Trong bài thơ “Tết của mẹ tôi”, thi sĩ Nguyễn Bính viết:
“Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều
Mẹ tôi lo liệu đủ trăm điều
Sân gạch tường vôi người quét lại
Vẽ cung trừ quỷ, trồng cây nêu”.
Có thể thấy, đoạn thơ gợi lên một không gian của những ngày chuẩn bị đón Tết trong đời sống tinh thần của người Việt. Đặc biệt, câu thơ đã nhắc đến tục trồng nêu ngày Tết, một nghi thức có ý nghĩa trong đời sống tâm thức của người Việt từ xa xưa, được hình thành, kế thừa và phát huy ở nhiều dạng thức khác nhau. Đây là nghi thức xuất hiện phổ biến trong đời sống dân gian, trong đời sống Phật giáo, được bảo tồn và lưu giữ đến hôm nay.
Phương Duy