Gỡ ‘nút thắt’ nguồn nguyên liệu ngành thủ công mỹ nghệ
(Chinhphu.vn) - Hà Nội hiện là địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng làng nghề và ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ này lại đang gặp thách thức lớn từ chính khâu nguyên liệu-yếu tố nền tảng quyết định đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

Sản xuất gốm sứ tại làng nghề Bát Tràng, Hà Nội. Ảnh: VGP/TL
Chuỗi cung ứng nguyên liệu hiện còn nhiều bất cập
Là một địa phương có các làng nghề gốm sứ nổi tiếng như Kim Lan, Bát Tràng. Ngành gốm sứ không chỉ mang lại giá trị văn hóa lịch sử mà còn đóng góp vào kinh tế, việc làm, du lịch cho các làng nghề Hà Nội.
Thị trường xuất khẩu mở rộng, điều này đồng nghĩa với nhu cầu nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao, giá hợp lý ngày càng cao. Ông Đào Việt Bình, Chủ tịch Hiệp hội gốm sứ Kim Lan cho hay, nhu cầu hằng năm tại Hà Nội ước tính đất sét, cao lanh khoảng 80.000-100.000 tấn; tràng thạch, thạch anh khoảng 10.000 tấn; men, phụ gia khoảng 2.000-3.000 tấn. Tuy nhiên, phần lớn nguyên liệu phải mua từ các tỉnh ngoài Hà Nội như là Phú Thọ, Quảng Ninh, Lào Cai và một phần nhập khẩu.
Mặt khác, chuỗi cung ứng nguyên liệu hiện còn nhiều bất cập. Theo đó, nguồn cung phụ thuộc vào thương lái trung gian; khó tiếp cận các mỏ đất chất lượng vì các mỏ đó sau khi khai thác đã được bán cho các doanh nghiệp nước ngoài với giá thành cao so với doanh nghiệp trong nước; giá nguyên liệu biến động mạnh; chưa có hệ thống logistics chuyên biệt và chất lượng nguyên liệu không đồng đều. Đặc biệt, một số nguyên liệu đặc biệt như men màu zircon, oxit kim loại tinh chế vẫn phải nhập khẩu với giá cao, làm tăng đáng kể chi phí sản xuất.
Với kỹ thuật cắt, mài, gắn tỉ mỉ từng mảnh vỏ trai, vỏ ốc lên bề mặt gỗ, khảm trai đã trở thành một nét đặc sắc trong kho tàng thủ công mỹ nghệ của Hà Nội. Thế nhưng, giữa guồng quay phát triển của kinh tế thị trường, nghề truyền thống này đang đối mặt với không ít khó khăn, đặc biệt là về nguồn nguyên liệu.
Ông Nguyễn Vinh Quang, Chủ tịch Hiệp hội Khảm trai Phú Xuyên (Hà Nội) cho hay, nguyên liệu chính của nghề khảm trai là vỏ trai, vỏ ốc và vỏ điệp, đây đều là những loại nguyên liệu tự nhiên ngày càng khan hiếm. Trước đây, các loại vỏ này có thể thu mua dễ dàng với giá hợp lý. Tuy nhiên, việc khai thác quá mức trong nhiều năm, cộng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các quy định nghiêm ngặt về bảo tồn sinh học đã khiến nguồn cung trở nên thiếu ổn định.
Tình trạng khan hiếm không chỉ đẩy giá nguyên liệu tăng cao, trong đó, có loại vỏ trai quý hiếm hiện nay có thể lên tới hàng trăm nghìn đồng mỗi kg, mà còn gây áp lực lớn đến chi phí sản xuất.
Trong khi đó, chất lượng nguyên liệu lại không đồng đều, khiến nghệ nhân phải tốn nhiều thời gian lựa chọn, xử lý, thậm chí có khi phải loại bỏ hoàn toàn nếu không đạt yêu cầu kỹ thuật. Sự lãng phí này càng làm gia tăng chi phí đầu vào.
Theo số liệu khảo sát mới nhất của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội, trung bình một năm các làng nghề mây tre đan của Hà Nội tiêu thụ khoảng 6.800 tấn nguyên liệu các loại. Trong đó, trung bình một doanh nghiệp tiêu thụ khoảng 50 tấn nguyên liệu một tháng; các làng nghề gốm sứ tiêu thụ khoảng 620.000 tấn nguyên liệu, chủ yếu là đất sét và cao lanh; các làng nghề sơn mài khoảng 4.000 tấn, làng nghề gỗ khoảng 1 triệu m3 gỗ.
Dù vậy, nguồn cung nguyên liệu chưa ổn định là một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Hà Nội vẫn còn thiếu sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Không chỉ các làng nghề chịu tác động, ngay cả những địa phương có thế mạnh về nguyên liệu cũng đang đối mặt với tình trạng suy giảm tài nguyên và thiếu liên kết chuỗi. Ông Hoàng Xuân Tiến, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp cho biết, địa phương hiện sở hữu 3 nhóm nguyên liệu chính: Nguyên liệu tại chỗ (tre, nứa, lá nón, gỗ rừng trồng, cây làm hương), nguyên liệu nhập từ tỉnh ngoài và nguyên liệu công nghiệp phụ trợ.
Tuy nhiên, việc thiếu quy hoạch và bảo tồn khiến nhiều vùng nguyên liệu ngày càng thu hẹp. Tre, nứa bị khai thác không bền vững; một số giống quý gần như biến mất. Gỗ rừng trồng tuy nhiều nhưng chất lượng thấp, không đáp ứng yêu cầu sản xuất tinh xảo; cây làm hương như bời lời, dẻn cũng dần mai một.
Trong khi đó, nguyên liệu cao cấp như sơn mài, gỗ quý, sợi dệt, kim loại vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập ngoài, đẩy chi phí đầu vào tăng cao. Một số hộ sản xuất sử dụng nguyên liệu trôi nổi để tiết giảm chi phí, làm giảm chất lượng và uy tín sản phẩm.
Điểm yếu lớn nhất là thiếu liên kết bền vững giữa vùng nguyên liệu và các cơ sở sản xuất. Hầu hết nguyên liệu được thu mua qua thương lái nhỏ lẻ, không có hợp đồng ổn định, dẫn đến chất lượng khó kiểm soát và giá cả bấp bênh. Một số hợp tác xã đã tổ chức vùng nguyên liệu riêng nhưng quy mô còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất lớn. Ngoài ra, khâu sơ chế nguyên liệu tại chỗ còn hạn chế: tre nứa chưa xử lý chống mối mọt, gỗ chưa được sấy tẩm đúng kỹ thuật, lá nón chưa đạt tiêu chuẩn – ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và khả năng xuất khẩu.
Cần chiến lược tái cấu trúc chuỗi cung ứng nguyên liệu
Để giải quyết bài toán nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ một cách bền vững, cần thiết phải thúc đẩy liên kết hợp tác toàn diện giữa các bên trong chuỗi giá trị, từ tạo vùng nguyên liệu, sơ chế, chế biến đến phân phối.
Ở góc độ hiệp hội, ông Lê Bá Ngọc, Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nhấn mạnh, Hà Nội phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu ngoài tỉnh. Ông đề nghị Thành phố cần liên kết theo mô hình công-tư-cộng đồng để xây dựng vùng chuyên canh. Chẳng hạn, ký hợp đồng với Thanh Hóa về tre, Quảng Nam về mây và Lâm Đồng về tơ lụa… nhằm có vùng cung cấp ổn định, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Ông Vương Đình Thanh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn Phát triển công nghiệp Hà Nội kiến nghị cần đầu tư phát triển vùng nguyên liệu tập trung và điều chỉnh giá thuê đất cho các cơ sở sản xuất trong cụm công nghiệp.
Từ phía địa phương cung cấp, ông Hoàng Xuân Tiến, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Phú Thọ cho rằng, ngành thủ công mỹ nghệ Phú Thọ cần một chiến lược tái cấu trúc chuỗi cung ứng nguyên liệu một cách tổng thể. Trước mắt, cần thiết lập lại hệ thống vùng nguyên liệu với địa chỉ hành chính rõ ràng, từ đó xây dựng chuỗi liên kết giữa người trồng, cơ sở sơ chế, nhà sản xuất và thị trường tiêu thụ.
Đồng thời, cần khảo sát, đánh giá tiềm năng nguyên liệu bản địa, lựa chọn cây trồng đặc trưng để bảo tồn, nhân giống và phát triển theo hướng hàng hóa chất lượng cao. Các công đoạn sơ chế như xử lý, sấy khô, phân loại nguyên liệu cũng cần được đầu tư để tăng giá trị gia tăng và giảm phụ thuộc nguồn ngoài.
Các địa phương, đặc biệt là Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, hỗ trợ kết nối giao thương, tạo điều kiện cho Phú Thọ hợp tác cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ bán thành phẩm và sản phẩm thủ công mỹ nghệ...
Thùy Linh