Xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế với hàng thủ công mỹ nghệ
(Chinhphu.vn) - Dù sản xuất nhiều nhưng sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt vẫn chưa được khẳng định, bởi việc sản xuất còn nhỏ lẻ, mẫu mã trùng lặp, vấn đề bao bì, câu chuyện sản phẩm vẫn chưa được đầu tư…Chính vì vậy, việc xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế không chỉ là lựa chọn, mà đã trở thành xu hướng tất yếu.

Quang cảnh Hội thảo. Ảnh: VGP/TL
Thông tin được đưa ra tại Hội thảo "Tư vấn nâng cao nhận thức về xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ" do Hiệp hội Làng nghề Việt Nam tổ chức sáng 3/12.
Cần có chiến lược thương hiệu rõ ràng
Nghệ sĩ Ưu tú Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam khẳng định, mối quan hệ giữa thương hiệu và sản phẩm trong kinh tế thị trường là mối quan hệ "song hành-tương hỗ": Thương hiệu tạo giá trị gia tăng, còn sản phẩm là nền tảng để thương hiệu tồn tại và thể hiện bản sắc. Vì thế, sản phẩm làng nghề muốn phát triển bền vững phải có chiến lược thương hiệu rõ ràng.
Theo ông Đạt, trong bối cảnh thị trường tràn ngập sản phẩm tương tự, thương hiệu mạnh giúp phân biệt hàng thủ công truyền thống với hàng công nghiệp, hàng nhái. Đồng thời, thương hiệu là thước đo chất lượng và nguồn gốc, tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong nước và quốc tế.
Không chỉ tạo sự khác biệt, thương hiệu còn mở cửa cho sản phẩm tiếp cận các kênh phân phối hiện đại như siêu thị, thương mại điện tử, chuỗi bán lẻ toàn cầu. Khi có thương hiệu, sản phẩm được định giá đúng hơn, ổn định đầu ra, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế nông thôn.
Bảo hộ thương hiệu là yếu tố sống còn giúp ngăn chặn hàng giả, duy trì danh tiếng của làng nghề. Với những sản phẩm mang giá trị văn hóa sâu đậm như đồ gỗ, sơn mài, khảm trai, thương hiệu còn là công cụ bảo tồn bản sắc, tạo niềm tự hào "hồn Việt".
"Nếu coi sản phẩm thủ công là tinh hoa của văn hóa dân tộc, thì thương hiệu chính là linh hồn giữ tinh hoa đó. Không có thương hiệu, sản phẩm dù đẹp đến đâu cũng khó được định giá đúng", ông Trịnh Quốc Đạt nhấn mạnh.
Là quốc gia có lịch sử chế tác đồ gỗ và mỹ nghệ lâu đời bậc nhất Đông Nam Á, Việt Nam hiện có hơn 300 làng nghề gỗ, 1.000 cơ sở thủ công mỹ nghệ, thu hút hàng trăm nghìn lao động. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ đạt hơn 15 tỷ USD, chiếm khoảng 7% tổng xuất khẩu cả nước. Việt Nam đứng trong top 5 quốc gia xuất khẩu sản phẩm gỗ lớn nhất thế giới, hiện diện tại hơn 160 thị trường.
Tuy nhiên, dù sản xuất nhiều, sản phẩm Việt vẫn chủ yếu mang nhãn hiệu nước ngoài. Giá trị gia tăng thấp, thương hiệu "Made in Vietnam" chưa được khẳng định. Nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, mẫu mã trùng lặp, không đầu tư nhận diện thương hiệu, bao bì, câu chuyện sản phẩm. Các yêu cầu về chất lượng, nguồn gốc gỗ hợp pháp, chứng nhận xanh – sạch – bền vững chưa được áp dụng đồng bộ, trong khi đây là điều kiện bắt buộc của EU, Mỹ, Nhật Bản. Hạn chế về thiết kế, tiếp thị, thương mại điện tử khiến sản phẩm khó tiếp cận người tiêu dùng toàn cầu dù chất lượng tốt và giá cạnh tranh. Chính vì vậy, xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế không chỉ là lựa chọn, mà đã trở thành xu hướng tất yếu.
Mở đường nâng tầm thương hiệu sản phẩm thủ công Việt

Việc xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế góp phần nâng giá trị và đưa sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt. Ảnh minh họa
Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường, nhiều làng nghề và doanh nghiệp đã chủ động thay đổi theo hướng chuyên nghiệp hóa như: Làng nghề gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh) đã đăng ký nhãn hiệu tập thể "Đồng Kỵ", xây dựng showroom trưng bày và đẩy mạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản. Làng nghề La Xuyên (Ninh Bình) nổi tiếng với đồ gỗ chạm khắc tinh xảo phục vụ công trình văn hóa-tôn giáo, hiện đã có sản phẩm đạt chứng nhận OCOP 4 sao. Doanh nghiệp Mộc Đức Khang (TPHCM) và Công ty Trường Sơn (Hà Nội) áp dụng tiêu chuẩn FSC – nguồn gỗ hợp pháp quốc tế, mở đường xuất khẩu sang EU. Một số cơ sở đã ứng dụng thương mại điện tử, đưa sản phẩm lên Amazon, Etsy, Alibaba, góp phần quảng bá hình ảnh sản phẩm gỗ Việt ra toàn cầu.
Nghệ nhân Nguyễn Thị Hòa, Chủ tịch Hội nữ doanh nhân Bắc Ninh, nhận định: "Thương hiệu không chỉ là logo, mà là câu chuyện văn hóa được kể bằng sản phẩm". Bà đánh giá cao mô hình gắn thương hiệu thủ công với du lịch trải nghiệm-hướng đi mà Thái Lan, Indonesia, Nhật Bản đã rất thành công.
Tại Hà Nội, hơn 1.300 làng nghề, trong đó 300 làng nghề có tiềm năng du lịch, tạo lợi thế đặc biệt cho việc xây dựng thương hiệu văn hóa. Các làng nghề như Sơn Đồng, Chàng Sơn, Vân Hà, Kim Bồng, Hạ Thái…đã đón khách quốc tế, tạo trải nghiệm trực tiếp, giúp thương hiệu trở nên sống động hơn.
Chỉ cách trung tâm Hà Nội 20 km, làng nghề sơn mài Hạ Thái đang xây dựng mô hình "Một điểm đến – nhiều trải nghiệm". Làng nghề đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành điểm đến nghệ thuật sơn mài đặc sắc, phục vụ du khách, học sinh, sinh viên và nhà nghiên cứu. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hồi kiến nghị Nhà nước hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu tập thể "Sơn mài Hạ Thái", đầu tư trung tâm trải nghiệm đạt chuẩn quốc tế, đào tạo marketing, thiết kế, thương mại điện tử cho người làm nghề, và thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp, cơ quan quản lý, làng nghề.
Đại diện Sở Công Thương Bắc Ninh nhấn mạnh, thương hiệu trong thời hội nhập không còn là tên gọi hay logo mà là cam kết chất lượng, giá trị văn hóa, lợi thế cạnh tranh. Một thương hiệu mạnh có thể giúp giá trị sản phẩm tăng gấp nhiều lần và mở cửa thị trường toàn cầu.
Để nâng tầm thương hiệu thủ công mỹ nghệ theo chuẩn quốc tế, Sở Công Thương đề xuất nhóm giải pháp trọng tâm. Theo đó, hỗ trợ xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu chuyên nghiệp với thiết kế logo, slogan, chuẩn hóa bao bì, nhãn mác; hình thành câu chuyện thương hiệu dựa trên bản sắc từng làng nghề. Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp đạt ISO, FSC, CE, FDA…; áp dụng sản xuất xanh, truy xuất nguồn gốc minh bạch…
Theo các chuyên gia, việc xây dựng thương hiệu hợp chuẩn quốc tế là con đường duy nhất để nâng sức cạnh tranh, nâng giá trị và đưa sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam vươn tầm toàn cầu. Khi thương hiệu trở thành "tấm hộ chiếu" trên thị trường quốc tế, sản phẩm thủ công Việt không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc – một "tài sản mềm" vô cùng quý giá.
Thùy Linh