Truy xuất nguồn gốc nông sản: Cần cơ chế xác nhận linh hoạt từ cấp cơ sở

03/12/2025 7:37 PM

(Chinhphu.vn) - Trong bối cảnh thị trường nông sản ngày càng đề cao tính minh bạch và an toàn, truy xuất nguồn gốc đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp, hợp tác xã và cả các hộ nông dân tham gia chuỗi sản xuất – phân phối.

Truy xuất nguồn gốc nông sản: Cần cơ chế xác nhận linh hoạt từ cấp cơ sở- Ảnh 1.

Đóng gói rau an toàn tại Công ty cổ phần Đầu tư An Hòa (xã Gia Lâm). Ảnh: Quang Thái

Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhóm sản phẩm nhỏ lẻ, sản lượng hạn chế, mang tính thủ công hoặc đặc sản vùng miền vẫn đang gặp nhiều rào cản trong việc chuẩn hóa quy trình truy xuất. Những khó khăn này không chỉ làm hạn chế khả năng đưa sản phẩm địa phương ra thị trường rộng lớn hơn, mà còn khiến cơ quan quản lý khó kiểm soát chất lượng một cách đầy đủ, chính xác.

Bà Đàm Thị Dịu, Giám đốc Công ty Kinh Bắc (xã Sơn Đồng) cho biết, doanh nghiệp đang gặp rất nhiều vướng mắc trong việc thực hiện truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm nông sản đặc thù. Đa phần những mặt hàng mà công ty thu mua và phân phối là đặc sản vùng miền, sản xuất nhỏ lẻ, mang tính thủ công, thậm chí có những loại chỉ thu được "vài lạng" mỗi ngày.

"Nhiều mặt hàng chúng tôi phân phối có sản lượng rất ít, thậm chí chỉ tính bằng lạng hay vài ki-lô-gam. Doanh nghiệp không thể thu mua trực tiếp từ hộ sản xuất, mà phải thông qua các hộ kinh doanh nhỏ lẻ, từ đó việc kiểm soát quy trình sản xuất gần như là bất khả thi," bà Dịu chia sẻ.

Thực trạng này không chỉ diễn ra tại Sơn Đồng mà đang phổ biến ở hầu hết các địa phương có đặc sản đặc trưng. Vì sản xuất manh mún, số lượng nhỏ, quy trình thủ công, nên từng hộ sản xuất khó có điều kiện áp dụng các quy chuẩn truy xuất tiên tiến.

Theo bà Dịu, hiện công tác truy xuất và hậu kiểm chứng nhận VietGAP mới chỉ thực hiện ở cấp vùng sản xuất hoặc theo danh sách hộ dân được chứng nhận, trong khi từng hộ nhỏ lẻ gần như không có công cụ minh chứng, không có hồ sơ ghi chép hoặc báo cáo sản xuất chi tiết. Điều này gây khó khăn lớn cho doanh nghiệp khi muốn đảm bảo tính minh bạch từ đầu vào.

Đặc biệt, với nhóm sản phẩm như măng rừng, mật ong rừng, rau củ đặc sản, thực phẩm tươi bản địa… sản lượng mỗi hộ rất nhỏ, việc yêu cầu họ tự công bố chất lượng hoặc tham gia hệ thống tem truy xuất hiện đại là điều gần như không khả thi.

"Cơ quan quản lý cũng gặp khó khi hậu kiểm, bởi không có dữ liệu cụ thể của từng hộ, trong khi doanh nghiệp lại cần chứng minh nguồn gốc khi phân phối vào các siêu thị, chuỗi cửa hàng, hoặc khi giới thiệu sản phẩm trên các nền tảng thương mại điện tử," bà Dịu phân tích.

Chính vì vậy, bà Đàm Thị Dịu đề xuất các sở ngành và cơ quan quản lý cần sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế xác nhận linh hoạt phù hợp với thực tế sản xuất nhỏ lẻ ở cấp xã, thôn. Cơ chế này cần tối giản thủ tục, dễ thực hiện, có tính pháp lý và được công nhận bởi hệ thống quản lý sản phẩm nông nghiệp, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp minh bạch thông tin, đồng thời bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Mong muốn chính sách đến cơ sở nhanh hơn, sát thực tiễn hơn

Đồng quan điểm với doanh nghiệp phân phối, ông Nguyễn Tuấn Hồng, đại diện hợp tác xã Sản xuất và Tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng, chia sẻ rằng các mô hình sản xuất nông nghiệp ở ngoại thành vẫn đang gặp rất nhiều vướng mắc về công nghệ, cơ sở vật chất và trình độ nhân lực.

Cách đây 8 năm, hợp tác xã được hỗ trợ triển khai tem truy xuất QR. Tuy nhiên, chỉ sau 2 năm thí điểm, mô hình này phải dừng lại. "Lao động nông nghiệp chủ yếu lớn tuổi, rất khó tiếp cận công nghệ. Việc cập nhật thông tin điện tử hay sử dụng smartphone để quét mã là trở ngại lớn," ông Hồng nói.

Thực tế, tại nhiều xã ngoại thành, số lượng thành viên hợp tác xã sử dụng điện thoại thông minh còn hạn chế; việc ghi chép nhật ký sản xuất vẫn chủ yếu làm thủ công trên giấy. Khi áp dụng công nghệ truy xuất, hợp tác xã phải có nhân sự chuyên trách nhập dữ liệu, nhưng nguồn kinh phí và nhân lực lại không đáp ứng được.

Bên cạnh đó, theo ông Hồng, Luật Thủ đô mới đã tạo hành lang pháp lý rộng mở cho sản xuất nông nghiệp, trong đó có nhiều cơ chế hỗ trợ truy xuất nguồn gốc, xây dựng vùng sản xuất tập trung và ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, để luật thực sự đi vào cuộc sống, cần có sự hướng dẫn, triển khai nhanh, cụ thể và kịp thời từ thành phố đến cấp xã.

"Chúng ta hiện đang thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Mong muốn của chúng tôi là các chính sách hỗ trợ phải đến cơ sở nhanh hơn so với trước đây, nhất là với lĩnh vực nông nghiệp vốn rất cần sự đồng bộ từ quản lý đến sản xuất," ông Hồng nhấn mạnh.

Không chỉ khó khăn trong truy xuất, ông Nguyễn Tuấn Hồng cho biết hầu hết doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư vào nông nghiệp hiện nay đều là đơn vị nhỏ, vốn hạn chế, thiếu mặt bằng ổn định. Việc tự bỏ kinh phí lớn để tích tụ ruộng đất hoặc đầu tư nhà màng, nhà lưới và hệ thống truy xuất tiên tiến là bài toán vượt khả năng nhiều đơn vị.

"Chúng tôi rất mong thành phố hỗ trợ kết nối với các hộ nông dân để hình thành vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Một khi đã có vùng sản xuất đủ lớn, việc ứng dụng công nghệ cao, quản lý đồng bộ, ghi chép nhật ký và truy xuất nguồn gốc sẽ thuận lợi hơn rất nhiều," ông Hồng nêu rõ.

Bên cạnh đó, HTX cũng đề xuất thành phố tiếp tục hỗ trợ: Tem truy xuất rõ ràng, minh bạch, chi phí thấp hoặc miễn phí giai đoạn đầu; Tập huấn cho lao động nông nghiệp lớn tuổi để tiếp cận công nghệ; Đầu tư cơ sở hạ tầng vùng sản xuất như đường nội đồng, lưới điện, hệ thống tưới; Hỗ trợ liên kết "4 nhà" (Nhà nước – nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp).

Những hỗ trợ này không chỉ giúp hợp tác xã và doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, mà còn nâng tiêu chuẩn sản phẩm, đáp ứng yêu cầu truy xuất ngày càng chặt chẽ của thị trường.

Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, việc truy xuất nguồn gốc đối với sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn đã có quy trình tương đối rõ; nhưng với sản phẩm đặc sản, sản lượng nhỏ, mang tính thủ công, cần một cơ chế hoàn toàn khác.

Theo các chuyên gia cho rằng cơ chế này có thể gồm việc xác nhận theo nhóm hộ hoặc cộng đồng sản xuất, do UBND xã hoặc HTX đứng ra chứng thực; Quy trình tối giản, chỉ yêu cầu ghi chép quy trình sản xuất theo biểu mẫu dễ thực hiện; Ứng dụng mã QR dùng chung theo vùng hoặc nhóm sản phẩm… Với cách làm này, người dân không bị "đè" bởi thủ tục, trong khi doanh nghiệp có cơ sở pháp lý để phân phối sản phẩm minh bạch.

Thiện Tâm

Top